Thuở xưa ở Ấn Ðộ có một ông vua tên là A Dục trị dân rất công
bình. Hồi còn trẻ, tính Ngài hay giận dữ nhưng dần dần Ngài trở nên nhân từ dịu
dàng. Nhờ gương sáng của Ngài, Ngài dạy cho dân tính trang nhã đối với mọi
người và lòng bác ái đối với kẻ khổ sở. Ngài lập bệnh viện để chữa trị người
bệnh, lập công viên để người và vật có chỗ nghĩ ngơi, sai đào giếng để khách bộ
hành và vật khỏi bị khát nước, sai trồng hai bên đường những cây ăn quả và cây
để làm thuốc.
Người con trước nhất của Ngài có cặp mắt đẹp nhân từ như chim “Câu
Na La”. cho nên người ta gọi chàng là Câu Na La. Ðức vua rất đổi yêu mến, Hoàng
hậu Liên Hoa là mẹ của hoàng thái tử.
Hoàng hậu mất sớm. Nhưng hoàng thái tử rất được vua cha yêu dấu và
tin dùng. Lòng từ ái, tính dịu dàng và khiêm nhường của Ngài làm quần chúng.
rất yêu mến và kính trọng. Vợ Ngài rất dịu dàng, bao giờ cũng làm vừa lòng
Ngài, tên nàng là Ma Ða Vi.
Hoàng hậu mất, vua A Dục lấy một người vợ tự cao và độc ác tên là
Xích Di. Sau khi nàng sanh được một con, nàng ước ao nó sẽ được nối ngôi thay
chân Câu Na La, và tuy không để lộ ra một cử chỉ gì, lòng nàng rất ghét người
con ghẻ.
Nhân khi vua mắc bệnh nặng, các thấy thuốc đành bó tay, nàng Xích
Di tìm cách chữa khỏi, vua tỏ ý muốn tạ ơn nàng, nàng xin vua cho con nàng được
nối ngôi. Thật trớ trêu cho vua A Dục. Ngài rất làm buồn rầu vì chẳng thể chiều
lòng ân nhân, và Ngài nhắc lại lời hứa với chánh hậu lúc hấp hối là chỉ truyền
ngôi cho hoàng thái tử Câu Na La mà thôi. Ngài nói: “Ta có thể bỏ ngôi báu chứ
không thể phụ lời hứa được”.
Thấy chuyện không lành, Xích Di xin vua cầm quyền chánh một ngày
mà nàng sẽ định sau. Vua nghe lời, và nàng định nhân dịp ấy mà làm những việc
gớm ghê.
Trong nước có một thành gọi là Ðắc Xô Thi La nổi lên chống lại các
quan thống trị của nhà vua. Chính hoàng hậu Xích Di cũng dính vào việc ấy. Thật
thế, trước hết nàng cho các quan liêu rồi bảo lấy thuế dân thành ấy thật nặng,
sau xúi dân nổi lên làm loạn. Hoàng hậu xúi dân nên đề nghị vua cho Thái tử Câu
Na La ra thống trị thành ấy, lấy cớ rằng chỉ có hoàng thái tử là công bình mới
đẹp loạn được. Sáng hôm sau các đại biểu thành Ðắc Xô Thi La đến để đề nghị
việc ấy, Xích Di tâu vua cho được tự tiện dùng ấn của Ngài, là cái ấn dùng để
niêm phong những sứ mạng gởi đi. Thế tức là nàng nắm được quyền hành trong ngày
ấy.
Rồi các đại biểu, Hoàng hậu đồng tình lời yêu cầu của họ, tâu vua
rằng chỉ có Hoàng tử được dân thán phục và cho nên đưa dân đến chỗ bình an mà
không có cuộc đảo chính vì. Vua nghe lấy làm bối rối, vì Ngài nghi Hoàng hậu có
giả tâm.
Có gì nguy hiểm bằng sai Thái tử đến một thành phiến loạn.
Thấy vua lo lắng, Hoàng hậu ra cái vẻ đớn đau nói rằng: “Nếu nhà
vua còn ngờ lòng nàng thì từ nay nàng không nói gì nữa”. Rồi nàng giả đò giận
dỗi trả ấn lại cho vua, vì nàng biết thế nào vua cũng không nỡ thu. Thật thế,
vua A Dục trọng lời hứa không dám lấy ấn lại. Thái tử cũng cố định xin
đi, Ngài phải bằng lòng. Nhưng muốn chắc chắn Ngài định cho một đội quân đi
phòng thân Hoàng tử. Hoàng tử chối từ việc ấy, vì ngài nghĩ muốn tránh sự đổ
máu, phải hành động rất mau: Nếu đi với đạo quân thì mất nhiều ngày giờ. Ngài
lại nói rằng: “Nào phải thấy gươm giáo như rừng, nghe tiếng ngựa hý, voi gầm,
tiếng xe, tiếng trống, tiếng kèn, mà yên nhân tâm được đâu”.
Vua không nói gì nữa. Thái tử từ giã Ngài, giã biệt nàng Ma Ða Vi
rồi một mình cỡi ngựa Ma Ðăng La phi đi mau như gió. Chàng có ai ngờ sau lưng
chàng có người kỵ mã phóng nước đại. Ðó là người rất sát sao với Hoàng hậu,
đương mang trong mình một sứ mệnh có niêm ấn vua kỹ lưỡng.
Hoàng thái tử cưỡi bạch mã đi mau như bay. Hai bên đường làng mạc
núi đồi đồng lúa rừng xanh như thụt lui lại. Nhưng cái tên chàng còn đến nhanh
hơn, vì dương thế mong ngài đến lắm. Họ sửa soạn tiếp chàng. Kẻ thì rắc hoa
xuống đường, kẻ thì hái quả đến hiến, đâu đâu cũng dậy tiếng hoan hô. Nhân dân
xin Thái tử tha tội vì nhân dân không dám nổi lên chống vua, mà chỉ vì bọn tham
quan ô lại. Nghe tiếng kêu vang. Ngài lấy làm thương hại tha lỗi mà đi vào
thành giữa tiếng nhạc vang dội. hoàng thái tử đặt lại thuế chọn người công bình
ra trị dân; dân lấy làm mừng rỡ và phái đại biểu về tâu vua tỏ bụng giáp, và ca
tụng hoàng thái tử đã đưa lại sự lặng.
Thành Ðắc Xô Thi La đang vui vẻ thì bỗng nhiều người cưỡi ngựa
theo hoàng thái tử vừa đến, và giao cho công chức trong thành một chỉ thị. Mở ra
xem ai nấy sửng sốt sợ hãi vì ra lệnh: “Phải móc mắt hoàng thái tử Câu
Na La kẻ thù lợi hại của nhà vua và là kẻ làm nhuốc nhơ nòi giống”. Chỉ thị lại
nói rằng khi đã làm hình phạt ấy rồi, không được người dân nào cứu giúp Thái tử
và cấm không được nói đến tên Ngài nữa.
Các viên chức không dám cho Thái tử biết chỉ thị vô nhân đạo ấy.
Sau một đêm lo ngại, họ nói với nhau rằng: “Nếu ta không tuân lệnh sẽ bị nhiều
hiểm nguy. Ðến Hoàng tử là người tốt đối với cả thảy cõi trần mà nhà vua còn
bắt tội nữa là chúng ta”.
Sáng mai họ dâng chỉ thị lên cho Hoàng tử. Ðọc xong Ngài nói: “Ðây
chính là lệnh của nhà vua, vì có niêm ấn rõ ràng, các ngươi cứ thi hành theo
lệnh ấy”.
Ngài cũng biết rằng vua cha chẳng bao giờ có ra lệnh hành hình
con, đó là chỉ do Hoàng hậu, nhưng đã có niêm ấn thì phải tuân theo.
Dân gian được tin sẽ thi hành mệnh lệnh tại một khoảng đất giữa
thành thị. Ðến giờ đao phủ được lệnh móc mắt Thái tử, nhưng bọn này chỉ chấp
tay kính cẩn xin chịu: “Chúng tôi không ai đủ quả cảm làm việc ấy”.
Hoàng thái tử tháo chuỗi ngọc mang trên đầu đưa cho đao phủ nói
rằng: “Ðây là tiền thưởng cho các ngươi để làm tròn phận sự”. Chúng vẫn nhất
thiết chối từ. sau rốt có một người hình thù quái dị, đến xin thay chân bọn đao
phủ. Nhưng anh này cũng không có gan dùng tay móc mắt. Anh ta đốt một đống lửa
lớn nung một thanh sắt đỏ rồi lại gần Thái tử. hoàng thái tử ngồi thiên nhiên
để đốt cặp mắt. Cảnh tượng bấy giờ thật là đau đớn đến nổi hằng nghìn người
chung quanh đều khóc vang lên.
Hành quyết xong, hoàng thái tử một tay chống lên người kia, một
tay ra hiệu bảo mọi người chung quanh lặng yên. Thái tử khuyên phải xa Ngài ra
không được cứu giúp Ngài và kêu tên Ngài, y như trong đạo lệnh. Họ cúi đầu vừa
đi vừa khóc, trong lúc ấy Thái tử nằm phục xuống đất. Nghe nắng dội nóng, Ngài
lê đến một chỗ có bóng mát để nghỉ.
Lâu lắm, chung quanh Ngài yên tịnh không một tiếng động, bỗng Ngài
nghe tiếng chân ngựa dậm gần đến rồi có tiếng kêu thảm thiết.
Nhận là con ngựa Măng Ða La, Ngài nói: “Còn con nữa, con cũng nên
bỏ thầy con”.
Con ngựa quẩn vài lần rồi đi xa, ra khỏi thành phố, một mình thui
thủi trở lại con đường mà nó đã vui vẻ đưa hoàng thái tử đi.
Mặt trời lặn. Một vài người động lòng muốn giúp Ngài. Song đã có
lệnh cấm, họ đành đứng xa nhìn nhau lắc đầu. Sau mãi một bà lão nghèo đi lại
gần Ngài lấy nước rửa chỗ đau và lấy cỏ băng lại; cô đỡ Ngài dậy, dìu ra khỏi
cổng làng rồi đành thở dài trở về.
Trong lúc hoàng thái tử đang đau đớn, thì đại biểu thành Ðắc Xô
Thi La được vua tiếp đãi ân cần. Thấy nói Thái tử được hoan hô trọng, lòng nàng
Ma Ða Vi cũng bớt lo sợ, vì nghe chồng nàng phải đi dẹp loạn nàng vẫn áy náy
không yên.
Mấy ngày sau, nóng ruột nàng đi đến chỗ nàng tạm biệt chồng; qua
ngày thứ ba, nàng bỗng thấy con ngựa Ma Ða La trở về một mình. Một tư tưởng ghê
gớm thoáng qua óc nàng; rồi như cây gỗ bị đốn gốc, nàng ngã xuống ngút.
Tỉnh dậy nàng nghĩ rằng có lẽ chồng nàng đã bị dân nổi loạn giết
chết. “Sao ta lại không tin chồng ta còn sống?” Nếu chưa được tin vững chắc,
sao ta không đi tìm chồng”. Nghĩ vậy nàng không để mất một phút, trở về cung,
trút bỏ đồ trang sức, ăn bận như người thứ dân rồi trốn đi tìm chồng nàng không
dám cho vua biết, sợ vua vì thương mà cầm lại chăng.
Nàng thui thủi đi về phía thành Ðắc Xô Thi La, ruột đau như cắt,
dọc đường gặp ai nàng cũng hỏi có gặp Thái tử không? Ði ngày này sang ngày khác
chẳng được tin gì cả.
Một buổi sáng vừa ra khỏi chỗ trú đêm, nàng liền gặp một người
nông phu đang gieo mạ. Người ấy nói lúc bình minh, nhân đi qua đám rừng nhỏ
thấy một người trẻ tuổi mù mặc áo ra dáng ông hoàng; người nông phu liền cho
người ấy mấy quả cây hái trong rừng và một chén nước lạnh.
Nàng Ma Ða Vi liền đến chỗ ấy thì nàng thấy Câu Na La một mình
ngồi trên đá. Nhưng đớn đau thay, cặp mắt của chàng đã tắt hẳn. Nàng
khóc nức lên và quì trước chàng nghẹn ngào, cầm lấy tay chàng hôn. Nghe nước
mắt nhỏ xuống tay, Thái tử cảm động, đoán là nàng Ma Ða Vi. Nhưng chàng chưa
dám tin. Ðến khi nghe rõ tiếng nàng thì không còn nghi gì nữa. Chàng bảo nàng
ngồi xuống; trong lúc đang thống khổ ấy, được gặp người nhà yêu, nỗi mừng khôn
xiết.
Thái tử thuật lại cho vợ nghe những chuyện xảy ra. Rồi nàng đỡ
chàng đứng dậy đưa chàng cùng về ra mắt vua cha.
Về phần vua A Dục từ khi được tin con ngựa Ma Ða La về một mình và
nàng Ma Ða Vi đi trốn, Ngài rất lo ngại. lập tức sai sứ về thành Ðắc Xô Thi La
để hỏi tin Thái tử và tìm nàng Ma Ða Vi. quần chúng trong thành, thấy vua lo
ngại cho Thái tử liền hiểu họ bị cái dụ trước tiên lừa. Sợ bị nghiêm trị, họ
bèn tìm cách lừa sứ giả rằng hoàng thái tử đã một mình về triều. Dân chung
quanh không dám hé răng, vì chúng biết rằng nói sẽ bị trị. sứ giả nghi dân đã
giết Thái tử nhưng không cớ bằng cớ gì đành trở về.
Trong khi ấy hai vợ chồng hoàng thái tử cùng dắt nhau về kinh. Bấy
giờ Thái tử đã trút bỏ bộ áo xống ông hoàng mà khoác đồ rách rưới vì trong cảnh
ấy đồ trang sức chỉ làm thêm đau lòng. Ði qua làng hai vợ chồng cất tiếng hát
trong trẻo dịu dàng, dân làng động lòng đưa cho đồ để ăn uống.
Một ngày kia hai người đến cung điện nhà vua. Lính canh cửa thấy
người lam lũ nên không cho vào. Nhưng thấy cảnh thương hại áo rách bùn lầy bụi bậm nên cho vào trú trong chỗ chứa xe. Mỏi mệt hai người ngủ
thiếp. Vua A Dục đương buồn rầu nghĩ đến con thì ngài giật mình vì
nghe tiếng hát quen tai; đó là tiếng hát của hoàng thái tử ở trong thanh lâu
xe. Vua nhận ra là tiếng con, nhưng còn sợ lầm. Ngài sai ra hỏi xem ai hát. Cận
thần tâu rằng: đó là tiếng hát của người ăn xin mù, đi với một người vợ. Vua
liền sai dẫn cặp vợ chồng kia đến sân rồng. Thoạt đầu thấy người ăn mặc rách
rưới vua còn nghi chưa dám nhận là con nhưng hộ mặt nhân từ hiền từ kia thật là
của hoàng thái tử, còn lầm sao được. Hơn nữa dầu nàng Ma Ða Vi xống áo thô cũng
còn dễ nhận. Vua đưa mắt nhìn dâu, nhìn con rồi ôm choàng cả hai mà khóc nức
nở.
Một hồi lâu vua mới định thần lại, hỏi tại sao hoàng thái tử mắc
nạn. Khi hiểu căn nguyên, vua nổi giận, hỏi rằng: “Ðứa nào dám dùng ấn của trẫm
để làm việc tày trời kia?”. Thái tử ngồi im, vì chàng không muốn nói vì sợ
Hoàng hậu bị nghiêm phạt, hỏi mãi, nàng Ma Ða Vi mới nhắc lại cho vua hay rằng
Hoàng hậu Xích Di có được phép dùng riêng ấn vua trong một ngày. Ðã nhiều lần
vua nghi Hoàng hậu có bụng ác với Thái tử. Vì Ngài nghĩ rằng, Hoàng hậu muốn
con được nối ngôi tức là muốn trừ Hoàng tử Câu Na La; tuy nghi vậy Ngài vẫn
không dám tin. Nhưng bây chừ sự đã rõ ràng, Ngài liền truyền lệnh vời Hoàng hậu
đến.
Về phần Hoàng hậu, từ khi thi hành được mánh lới, mất ăn mất ngủ;
hễ chợp mắt là thấy hiện ra cảnh mắt Thái tử bị hành hình. Thế rồi vừa tỉnh dậy
vừa la. Nàng lo rằng tội nàng sẽ có máu lộ. Nàng tưởng tượng rằng từ vua chí
dân, quân lính, quan liêu ai cũng nhìn thấu rõ tâm can mình, khiến nàng càng
thêm khắc khoải lo sợ.
Khi có lệnh đòi, nàng đoán biết là việc vỡ lở, lúc thấy các tội ác
của mình, nàng ân hận nhưng không nói ra tiếng nữa chỉ cúi gầm mắt xuống, đợi
lời tuyên án. Thái độ ấy rõ ràng hơn lời thú tội.
Vua A Dục nổi xung mắng lớn và truyền rằng trước khi đưa Hoàng hậu
ra chém còn bắt chịu nhiều cực hình đau khổ đã. Hoàng thái tử tâu xin vua mở
lượng từ bi giảm tội cho nàng. Nhưng vua vẫn không nghe. Hoàng thái tử bèn quỳ
xuống nói rằng: “Tâu lạy phụ vương, nào phải một mình Hoàng hậu phạm tội đâu!
Ðó chỉ là kiếp trước con làm nhiều tội ác, nên nay bị nghiệp báo thôi. Ðã từ
lâu con cố nhớ xem lại kiếp trước con đã tạo nên tội ác gì nhưng mãi đến tối
bữa qua, con mới nhớ rõ…”
Vua ngắt lời: “Như con thì có tội gì mà, con là người tốt nhất
trên đời!”. hoàng thái tử cảm động đáp: “Một người hiền lương chưa hẳn là vô
tội. Vì nếu kiếp này ăn ở phúc hậu, nhưng kiếp trước bạc ác thì cứ phải chịu
quả báo. Tâu phụ vương, thuở xưa, có một người đi săn, một hôm thấy năm chục
con dê rừng trong núi, liền lung núi bắt hết. Anh ta nghĩ rằng nếu giết hết thì
tiêu thụ làm sao cho hết, chi bằng ta móc mắt chúng đi, chúng không trốn được,
ta sẽ tuần tự đưa từng con tới tỉnh mà bán. Nghĩ thế anh ta không ngại ngần
liền dùng tay móc mắt chúng đi rồi thả vào hang núi để bán dần. Người đi săn ấy
là tiền kiếp của con. Người đi săn ấy đã làm thống khổ năm mươi chúng sanh,
ngày nay là ngày rút cuộc người ấy trả nợ vậy”.
Vua nghe lấy làm cảm động, nhưng còn đắn đo chưa tin thì Thái tử
ngồi ngay ngắn lại, chắp tay trước ngực mà nói rằng: “Nếu lời tôi nói đúng sự
thực thì xin Phật chứng minh cho và mắt tôi sáng lại”.
Lời nói vừa dứt, mắt Thái tử bỗng sáng như không, vua A Dục và
nàng Ma Ða Vi xiết bao vui mừng.
Vua dẹp giận ra lệnh đặc xá cho nàng Xích Di, chỉ buộc nàng phải
tìm chỗ yên để cải hối khuyết điểm. Vua từ đó ngôi báu vững, còn Thái tử được
chính thức phong Ðông cung để nối ngôi sau và nàng Ma Ða Vi sẽ là Hoàng hậu.
Thái tử Câu Na La là tiền thân Phật Thích Ca vậy.